Dinh dưỡng hợp lý:
– Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu tiên: tức chỉ bú mẹ, không uống nước hay bất cứ một loại thức ăn nào khác.
– Cho trẻ ăn dặm
khi được 4-6 tháng tuổi: thức ăn dặm phải đủ 4 nhóm thức ăn: bột, đạm, dầu, rau và phải ăn cả xác thức ăn.
– Rau xanh và trái cây tươi luôn luôn tốt hơn nước ép trái cây. Mỗi người lớn cần ăn 300-400gr rau xanh mỗi ngày. Trẻ em chỉ cần một muỗng canh rau bằm nhỏ trong một chén bột hoặc cháo là đủ.
– Sữa
là thực phẩm cung cấp can xi và đạm quý nên cần thiết cho mỗi lứa tuổi: mỗi ngày ít nhất hãy cho trẻ uống 300- 500ml sữa.
– Tập cho trẻ thói quen ăn uống lành mạnh khi còn nhỏ: Ăn nhiều loại thức ăn, ăn chậm nhai kỹ, tự xúc ăn, không ăn ngọt, không ăn mặn, không xay nát thức ăn, không vừa ăn vừa xem truyền hình, không uống nước ngọt khi ăn, không ăn vặt trước giờ ăn, không ăn quá no hoặc quá đói. Cha mẹ không nên ép buộc, la hét khi trẻ đang ăn.
Tóm lại là: ”Hãy biến bữa ăn thành bàn tiệc mà mọi người đều là khách được chiêu đãi bởi một chủ nhà thông minh và tế nhị.”
Đừng lười biếng và hãy yêu thiên nhiên:
Nếu ăn đúng nhưng không hoạt động, suốt ngày ngồi một chỗ xem truyền hình, chơi trò chơi điện tử … thì ta sẽ “đẹp” và yếu như một bông hoa. Cơ bắp không phát triển, cuộc sống thụ động mà được mệnh danh là “củ khoai tây salon”. Vì vậy, chúng ta nên:
– Cho trẻ xem truyền hình dưới 2 tiếng/ngày.
– Hãy đi bộ hoặc xe đạp đến trường, công sở.
– Hãy cho trẻ chơi thể thao 3 lần một tuần. Hãy chọn loại hình thể thao nào mà dễ chơi và ít tốn kém nhất, phù hợp với hoàn cảnh của bạn và con.
– Hãy chơi cùng con, bạn sẽ trẻ ra và luôn là người bạn tâm lý của con.
– Hãy cho con đi thăm bà con hoặc đi du lịch ít nhất một lần trong năm.
Hãy lắng nghe cơ thể :
– Cần luôn biết rõ tháng này trẻ tăng cân như vậy là thiếu, đủ hay thừa. Và cả bạn cũng vậy. Nếu tăng cân thiếu hay thừa thì cần điều chỉnh ngay, đừng để kéo dài quá 3 tháng vì như vậy sẽ muộn để phòng chống suy dinh dưỡng và béo phì đấy.
– Hãy phát hiện sớm những bất thường của sức khỏe như mệt mỏi, mất ngủ, chán ăn… và đến ngay bác sĩ của bạn để xin ý kiến .
Thận trọng với thuốc:
– Chỉ uống thuốc sau khi được bác sĩ chỉ định.
– Đừng phó mặc sức khỏe của trẻ và của bạn cho những “lời mách” của hàng xóm vì họ có một cơ thể khác bạn hoàn toàn, cho dù thuốc của họ cũng được bác sĩ ghi toa, vì bạn cũng biết rằng bác sĩ chỉ ghi toa trên tình trạng của họ chứ không phải của bạn và của con bạn.
– Bạn nên nhớ thuốc không phải là thức ăn nhé. Mà thức ăn sai đôi lúc còn gây “hậu quả nghiêm trọng” nữa là thuốc.
– Tóm lại là “hãy đem xe tới thợ sửa xe và hãy đem sức khỏe đến bác sĩ” , đừng làm ngược lại nhé.
Chế độ dinh dưỡng cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi
Hầu hết các bậc cha mẹ thường chỉ quan tâm đến cân nặng của cn, ít khi chú ý đến chiều cao của trẻ, ngay cả khi sinh các nữ hộ sinh cũng chỉ cần trẻ mà ít khi đo chiều dài của trẻ là bao nhiêu. Chiều dài của trẻ khi sinh cũng rất quan trọng, nó phản ánh tình trạng dinh dưỡng sau này của trẻ.
Có 3 giai đoạn quan trọng để trẻ phát triển chiều cao:
– Giai đoạn bào thai: nếu trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai hoặc sinh non tháng nhẹ cân thấp chiều cao thì nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi rất cao.
– Giai đoạn trẻ dưới 2 tuổi: chiều cao lúc trẻ 2 tuổi bằng 1/2 chiều cao lúc trẻ trưởng thành, vì vậy nuôi trẻ dưới 2 tuổi là vô cùng quan trọng.
– Giai đoạn tuổi tiền dậy thì: 10 – 13 tuổi ở trẻ gái, 13 – 17 tuổi ở trẻ trai. Vì vậy, nếu trẻ gái sau khi hành kinh, trẻ trai sau 17 tuổi sẽ rất khó có thể cao được nữa.
Suy dinh dưỡng thấp còi là gì?
Đây là tình trạng trẻ chậm phát triển chiều cao, chỉ đạt dưới 90% so với chiều cao chuẩn. Suy dinh dưỡng (SDD) thấp còi phản ánh tình trạng suy dinh dưỡng mãn tính kéo dài. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), hiện nay có khoảng 29,5% số trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị SDD thấp còi, với khoảng 154 triệu trẻ em. Hầu hết các trường hợp thấp còi xảy ra trước khi trẻ được 3 tuổi. Trẻ em bị thấp còi sau này trở thành người lớn cũng có chiều cao thấp. Hơn nữa, những người bị SDD thấp còi thường có nguy cơ tử vong cao, dễ mắc bệnh hơn, lao động kém hơn so với người bình thường.
Theo mô hình chu trình dinh dưỡng – vòng đời do Tiểu ban dinh dưỡng của Liên Hợp Quốc đưa ra tại Hội nghị dinh dưỡng về những thách thức cho thế kỷ XXI thì trẻ em thấp còi về sau trở thành người lớn cũng có chiều cao thấp. Trẻ em gái bị SDD thấp còi lớn lên trở thành người phụ nữ thấp còi và khi đẻ con thì nguy cơ SDD thấp còi cho con cao hơn.
Những trẻ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thấp còi
– Trẻ sinh non.
– Trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai: trẻ sinh đủ tháng nhưng có cân nặng sơ sinh < 2.500g.
– Trẻ bị dị tật bẩm sinh.
– Trẻ bị rối loạn tiêu hóa kéo dài.
– Trẻ bị nhiễm khuẩn đường hô hấp và tiêu hóa.
– Trẻ bị còi xương.
– Trẻ được nuôi dưỡng không hợp lý.
Hậu quả của suy dinh dưỡng thấp còi:
– Ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ.
– Ảnh hưởng đến chất lượng nòi giống.
– Trẻ dễ bị béo phì do thấp chiều cao.
Làm gì để giúp trẻ?
Chiều cao của trẻ do nhiều yếu tố quyết định, trong đó có 3 yếu tố chính:
– Di truyền.
– Chế độ dinh dưỡng.
– Luyện tập thể dục thể thao.
Như vậy, có 2 yếu tố có thể tác động và can thiệp được đó là chế độ dinh dưỡng và luyện tập thể dục thể thao.
Về chế độ dinh dưỡng:
– Cung cấp đủ năng lượng theo lứa tuổi của trẻ, trẻ không thể cao được nếu chế độ ăn thiếu năng lượng, bằng cách ăn đủ các bữa cháo, bột, cơm… hàng ngày theo tháng tuổi, bổ sung đầy đủ dầu mỡ trong các bữa ăn.
– Ưu tiên các thức ăn chứa nhiều chất đạm: thịt, cá, tôm ,cua, trứng, sữa.
– Chọn các thực phẩm giàu canxi, sắt, kẽm: cũng chính là các thức ăn có nguồn gốc động vật, giàu chất đạm: trứng, sữa, thủy sản, thịt… đặc biệt các loại thức ăn có chứa nhiều kẽm như: thịt gà, thịt cóc, con hàu… vì thiếu kẽm là một trong những nguyên nhân gây chậm phát triển chiều cao ở trẻ em.
– Nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng và tiếp tục bú đến 2 tuổi, nếu mẹ thiếu hoặc mất sữa thì phải được bổ sung sữa bột công thức theo tháng tuổi, khi trẻ đã lớn vẫn phải duy trì uống sữa hàng ngày vì sữa là nguồn cung cấp canxi chính trong bữa ăn của trẻ, nhất là trẻ còn nhỏ chưa ăn được nhiều tôm, cua, cá. Hơn nữa canxi trong sữa lại dễ hấp thu hơn trong các loại thực phẩm khác.
– Ăn nhiều rau xanh quả chín, cũng giúp trẻ phát triển chiều cao vì rau quả cung cấp nhiều vi chất dinh dưỡng, hơn nữa lại phòng ngừa táo bón giúp trẻ hấp thu tốt các vi chất như: canxi, sắt, kẽm…
Chế độ ăn cũng cần bổ sung các vi chất dinh dưỡng dưới dạng thuốc như: vitamin D, vitamin A, canxi, kẽm, sắt… theo hướng dẫn của bác sĩ.
– Điều trị kịp thời các bệnh còi xương, rối loạn tiêu hóa khi trẻ mắc phải.
Chế độ luyện tập thể dục thể thao cũng đóng một vai trò quan trọng trong phát triển chiều cao của trẻ: các môn thể thao giúp trẻ phát triển chiều cao: bơi lội, đạp xe, chạy, chơi cầu lông… khi trẻ đã lớn chọn các môn thể thao phù hợp với tuổi của trẻ. Như vậy, để trẻ lớn lên khỏe mạnh thông minh, các bà mẹ không chỉ quan tâm đến cân nặng của trẻ mà còn phải quan tâm đến chiều cao, vì chiều cao chỉ có từng giai đoạn để trẻ phát triển, nếu bỏ qua sẽ không thể lấy lại được.
Suy dinh dưỡng do thiếu protein nǎng lượng (thường gọi là suy dinh dưỡng) là tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu hiện của suy dinh dưỡng là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học tập, nǎng suất lao động kém khi trưởng thành.
Tầm quan trọng của suy dinh dưỡng:
Suy dinh dưỡng do thiếu protein nǎng lượng (thường gọi là suy dinh dưỡng) là tình trạng thiếu dinh dưỡng quan trọng và phổ biến ở trẻ em nước ta. Biểu hiện của suy dinh dưỡng là trẻ chậm lớn và thường hay mắc bệnh nhiễm khuẩn như tiêu chảy và viêm đường hô hấp, trẻ bị giảm khả nǎng học tập, nǎng suất lao động kém khi trưởng thành.
Làm thế nào để biết trẻ bị suy dinh dưỡng?
Theo dõi cân nặng hàng tháng là cách tốt nhất để nhận ra đứa trẻ bị suy dinh dưỡng hay không. Trẻ bị suy dinh dưỡng khi không tǎng cân, nhẹ cân hơn đứa trẻ bình thường cùng tuổi.
Tại sao trẻ bị suy dinh dưỡng?
Thiếu ǎn, bữa ǎn thiếu số lượng, thiếu các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển:
Trẻ dưới 5 tuổi có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp ứng nhu cầu đó, cần cho trẻ ǎn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Trẻ dưới 6 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn. Sữa mẹ là thức ǎn lý tưởng của trẻ nhỏ. Từ tháng thứ 7 trẻ bắt đầu ǎn thêm ngoài sữa mẹ. Từ tháng tuổi này, thực hành nuôi dưỡng trẻ có ý nghĩa quan trọng đối với suy dinh dưỡng. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ǎn bột muối, thức ǎn sam (dặm) thiếu dầu mỡ, thức ǎn động vật, rau xanh, hoa quả. Đây là những tập quán nuôi dưỡng chưa hợp lý cần được khắc phục. Mặt khác, để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng, trẻ cần được ǎn nhiều bữa trong ngày vì trẻ nhỏ không thể ǎn một lần với khối lượng lớn như trẻ lớn hoặc người lớn. Điều này có liên quan đến vấn đề chǎm sóc trẻ.
Người mẹ bị suy dinh dưỡng: Người mẹ trước và trong khi mang thai ǎn uống không đầy đủ dẫn đến bị suy dinh dưỡng và có thể đẻ ra đưa con nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị suy dinh dưỡng từ trong bào thai sẽ dễ bị suy dinh dưỡng sau này. Người mẹ bị suy dinh dưỡng, ǎn uống kém trong những tháng đầu sau đẻ dễ bị thiếu sữa hoặc mất sữa, do đó đứa con dễ bị suy dinh dưỡng.
Các bệnh nhiễm khuẩn như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh ký sinh trùng như nhiễm giun, sán: Đây là tình trạng hay gặp ở nước ta. Chế độ nuôi dưỡng không hợp lý khi trẻ bệnh là một nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng sau mắc bệnh ở trẻ dưới 5 tuổi.
Ngoài chǎm sóc về ǎn uống, đứa trẻ cần chǎm sóc về sức khoẻ (tiêm chủng, phòng chống nhiễm khuẩn), chǎm sóc về tâm lý, tình cảm và chǎm sóc về vệ sinh. Môi trường sống ở gia đình bị ô nhiễm, sử dụng nguồn nước không sạch để nấu ǎn, tắm giặt cho trẻ, sử lý nước thải, phân, rác không đảm bảo là những yếu tố dẫn đến suy dinh dưỡng.
Những đứa trẻ nào dễ bị suy dinh dưỡng?
Trẻ từ 6-24 tháng: thời kỳ có nhu cầu dinh dưỡng cao, thời kỳ thích ứng với môi trường, thời kỳ nhạy cảm với bệnh tật.
Trẻ không được bú sữa mẹ hoặc không đủ sữa.
Trẻ đẻ nhẹ cân (<2500g), trẻ đẻ sinh đôi, sinh ba.
Trẻ ở gia đình đông con, điều kiện vệ sinh kém, gia đình không hoà thuận.
Trẻ hiện đang mắc các bệnh nhiễm khuẩn như: bệnh sởi, tiêu chảy hay viêm đường hô hấp …
Cần làm gì để phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại mỗi gia đình?
Muốn phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, cần có sự hiểu biết, chủ động và thay đổi thực hành của mỗi gia đình. Do đó, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng lấy gia đình là đối tượng thực hiện công tác chǎm sóc dinh dưỡng cho trẻ em. Mọi gia đình đều hưởng ứng và thực hiện 8 nội dung cụ thể sau đây:
1.Chǎm sóc ǎn uống của phụ nữ có thai để đạt mức tǎng cân 10- 12 kg trong thời gian có thai. Khám thai ít nhất 3 lần, tiêm đủ 2 mũi phòng uốn ván.
2.Cho trẻ bú sớm trong nửa giờ đầu sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 18- 24 tháng.
3.Cho trẻ ǎn bổ sung (ǎn sam, dặm) từ tháng thứ 7. Tô màu đĩa bột, tǎng thêm chất béo (dầu, mỡ, lạc, vừng). ǎn nhiều bữa.
4.Thực hiện phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng: Phụ nữ có thai uống viên sắt/ acid folic hàng ngày. Trẻ em 6- 36 tháng uống vitamin A liều cao 2 lần một nǎm. Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn (tiêu chảy, viêm đường hô hấp). Thực hiện tiêm phòng đầy đủ. Chǎm sóc và nuôi dưỡng hợp lý trẻ bị bệnh.
5.Phát triển ô dinh dưỡng trong hệ sinh thái VAC (vườn, ao, chuồng) để có thêm thực phẩm cải thiện bữa ǎn gia đình. Chú ý nuôi gà, vịt để trứng, trồng rau ngót, đu đủ, gấc.
6.Phấn đấu bữa ǎn nào cũng có đủ 4 món cân đối. Ngoài cơm (cung cấp nǎng lượng), cần có đủ 3 món nữa là: rau quả (cung cấp vitamin, chất khoáng và chất xơ); đậu phụ, vừng lạc, cá, thịt, trứng (cung cấp chất đạm, béo) và canh cung cấp nước và các chất dinh dưỡng bổ sung giúp ǎn ngon miệng.
7.Thực hiện vệ sinh môi trường, dùng nguồn nước sạch, tẩy giun theo định kỳ, rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi đại tiểu tiện. Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, thức ǎn không là nguồn gây bệnh.
8.Thực hiện gia đình hạnh phúc, có nếp sống vǎn hoá, nǎng động, lành mạnh. Có biểu đồ tǎng trưởng để theo dõi sức khoẻ của trẻ. Không có trẻ suy dinh dưỡng, không sinh con thứ ba.
Bệnh béo phì ở trẻ mầm non
Trẻ em “quá khổ” đanglà nỗi lo của nhiều bậc phụ huynh cũng như thầy cô giáo ở các trường mầm non. Béo phì không những ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn tạo ra áp lực tâm lý đối với trẻ.
Nguyên nhân trẻ bị béo phì
Trẻ bị béo phì thường do các nguyên nhân cơ bản: di truyền từ bố mẹ; bé bị hội chứng thèm ăn; bị rối loạn nội tiết tố; ba mẹ quá nuông chiều cho xem ti vi nhiều lười vận động; ngoài ra sự thiếu kiến thức về dinh dưỡng, dinh dưỡng không hợp lý cũng sinh ra béo phì ở trẻ. Năm học 2008-2009, Sở GD- ĐT TP.HCM đã đưa chỉ tiêu giảm béo từ 2-3% so với trẻ béo phì vào các trường mầm non – một con số khá khiêm tốn. Nhưng thực tế, để đạt được những kết quả trên thì thật không đơn giản chút nào, vì ở chừng mực nào đó, nhà trường chưa có sự đồng thuận từ phía gia đình. Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều người cho rằng: “Trẻ nhỏ có mũm mĩm, mập mạp thì mới dễ thương; Trẻ béo phì xấu, không sao, miễn khỏe mạnh là được rồi; Cô ơi, ở trường mầm non, trẻ chơi nhiều hơn học, ăn nhiều béo tốt, để dành lên cấp I học nhiều sẽ tự ốm mà; Trường chạy theo chỉ tiêu, làm khổ mấy đứa nhỏ nó còn con nít biết gì mà béo với phì; Béo phì thì có sao đâu, nó vẫn chạy nhảy vui chơi bình thường mà”… Các bậc phụ huynh cần hiểu rằng, hiện nay béo phì được xem là một trong “tứ chứng nan y của thời đại”. Tuy nhiên, béo phì có thể chữa khỏi nếu người bệnh quyết tâm. Trẻ béo phì thường ăn nhiều lại ít vận động chậm chạp, bé mặc cảm ít tham gia cùng các bạn, mệt mỏi ít chú ý học tập, tiếp thu kém… Theo bác sĩ Hoàng Thị Tín (Bệnh viện Nhi đồng 1 – TP.HCM) thì trẻ bị béo phì tần suất gan nhiễm mỡ cũng tăng nhanh. Gan nhiễm mỡ do béo phì được công nhận là một bệnh lý gan mãn tính ở trẻ em. Nó bao gồm những rối loạn từ thoái hóa mỡ đơn thuần cho đến viêm gan mỡ, là tình trạng gan nhiễm mỡ nặng với các mức độ viêm và tổn thương tế bào gan khác nhau, có thể tiến triển thành xơ gan, ung thư và suy gan. Bên cạnh đó, béo phì còn là nguy cơ của những biến chứng khác như tăng công hô hấp, tăng thông khí, ngừng thở lúc ngủ do tắc nghẽn, bệnh lý sỏi mật, ung thư, xương khớp và da… Trẻ bị béo phì thường có tâm lý mặc cảm, tự ti, lâu ngày khiến trẻ dễ mắc các bệnh trầm cảm. Khi đó, trẻ sẽ không giao thiệp với bạn bè, kém tự tin, giảm khả năng học tập…”.
Các biện pháp phòng chống
Một số biện pháp về phòng chống béo phì tại trường là giúp trẻ giảm cân hợp lý, phù hợp với tâm, sinh lý của trẻ: tập cho trẻ vận động vừa sức, cho trẻ tập thể dục chơi các loại trò chơi giúp tăng chiều cao; hồ bơi của trường hoạt động hết công suất, ưu tiên cho trẻ béo phì; lao động trực nhật vừa sức; đây là loại hình lao động trẻ thích thú nhất, trẻ rất vui khi được cô giao nhiệm vụ. Về chế độ ăn của trẻ thì béo phì uống sữa gầy (sữa tách béo); giảm bớt lượng cơm trong bữa ăn; cho trẻ ăn nhiều rau, nhiều trái cây (trẻ có cảm giác no nhưng nhanh đói, bù lại trẻ sẽ được cung cấp nhiều vitamin có lợi cho sức khỏe); giáo viên chú ý giáo dục cho bé một số kiến thức cơ bản, để bé có thể tự phòng chống béo phì (không ăn nhiều bánh kẹo, ăn nhiều rau trái, tích cực vận động vừa sức, nhai kỹ khi ăn, không xem ti vi nhiều…). Trẻ béo phì nếu không tích cực chữa trị sẽ trở thành người lớn béo phì. Béo phì – bệnh khó chữa nhưng nếu được quan tâm đúng mức nhất là có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, chắc chắn sẽ thành công. Trẻ sẽ khỏe mạnh, hạnh phúc trong vòng tay của thầy cô và ba mẹ.